Hỗ trợ xã hội là gì? Các công bố khoa học về Hỗ trợ xã hội
Hỗ trợ xã hội là các dịch vụ và chương trình được cung cấp để giúp đỡ và bảo vệ những người cần hỗ trợ trong cộng đồng, nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống của ...
Hỗ trợ xã hội là các dịch vụ và chương trình được cung cấp để giúp đỡ và bảo vệ những người cần hỗ trợ trong cộng đồng, nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống của họ. Hỗ trợ xã hội có thể bao gồm việc cung cấp tiền trợ cấp, chăm sóc sức khỏe và giáo dục, dịch vụ tư vấn và hỗ trợ tâm lý, trợ giúp trong việc tìm việc làm, nhà ở và thức ăn. Ngoài ra, hỗ trợ xã hội cũng có thể đảm bảo quyền lợi của những đối tượng khác như trẻ em, người cao tuổi, người tàn tật và phụ nữ có thai. Mục tiêu của hỗ trợ xã hội là xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng và phát triển.
Hỗ trợ xã hội bao gồm các chương trình và dịch vụ cung cấp hỗ trợ cho những người đang gặp khó khăn và cần sự giúp đỡ. Các chương trình và dịch vụ này được cung cấp bởi chính quyền, tổ chức phi lợi nhuận và các tổ chức xã hội.
1. Tiền trợ cấp: Hỗ trợ tài chính có thể được cung cấp dưới dạng trợ cấp hàng tháng nhằm đáp ứng nhu cầu cơ bản của những người không có thu nhập ổn định. Điều này có thể bao gồm trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp gia đình, trợ cấp đối tượng chăm sóc...
2. Chăm sóc sức khỏe và giáo dục: Hỗ trợ xã hội cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản như khám bệnh, y tế phòng ngừa, Thuốc miễn phí hoặc giảm giá cho những người không có khả năng tài chính. Ngoài ra, hỗ trợ giáo dục bao gồm học bổng, trợ cấp học phí, giảm giá vật liệu học tập, hỗ trợ cho trẻ em khuyết tật hoặc khó khăn...
3. Dịch vụ tư vấn và hỗ trợ tâm lý: Hỗ trợ xã hội cung cấp các dịch vụ tư vấn và hỗ trợ tâm lý cho những người đang trải qua khủng hoảng, bị bạo lực, nghiện ma túy, hoặc gặp các khó khăn tâm lý khác. Các chương trình này giúp người dân tìm kiếm sự hỗ trợ và điều chỉnh tình hình cá nhân để có một cuộc sống tốt hơn.
4. Hỗ trợ việc làm: Hỗ trợ xã hội cung cấp các chương trình đào tạo nghề nghiệp, tài trợ các khóa học đào tạo và hỗ trợ trong việc tìm kiếm việc làm. Điều này giúp người dân có khả năng tìm kiếm công việc và nâng cao thu nhập của mình.
5. Nhà ở và thức ăn: Hỗ trợ xã hội cung cấp các dịch vụ giúp người dân có Thực phẩm và nhà ở an toàn. Điều này có thể bao gồm các chương trình cung cấp thực phẩm miễn phí hoặc giảm giá, chương trình trợ giúp về nhà cửa dành cho người vô gia cư hoặc người rơi vào hoàn cảnh khó khăn.
6. Bảo vệ quyền lợi và nhóm đối tượng đặc biệt: Hỗ trợ xã hội cũng có mục tiêu bảo vệ quyền lợi của các đối tượng đặc biệt như trẻ em, người cao tuổi, người tàn tật và phụ nữ có thai. Điều này có thể bao gồm việc bảo vệ quyền lợi của trẻ em bị bạo hành, chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi, truyền thông hiểu biết về quyền lợi của người tàn tật, hỗ trợ tài chính cho phụ nữ có thai...
Hỗ trợ xã hội là một phần quan trọng trong xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng và phát triển, đồng thời giúp đỡ những người cần được hỗ trợ nhất.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "hỗ trợ xã hội":
Một số nghiên cứu gần đây đã tập trung vào các thuộc tính thống kê của các hệ thống mạng như mạng xã hội và Mạng toàn cầu. Các nhà nghiên cứu đặc biệt chú ý đến một vài thuộc tính dường như phổ biến ở nhiều mạng: thuộc tính thế giới nhỏ, phân phối bậc theo luật công suất, và tính chuyển tiếp của mạng. Trong bài báo này, chúng tôi làm nổi bật một thuộc tính khác được tìm thấy trong nhiều mạng, đó là thuộc tính cấu trúc cộng đồng, trong đó các nút mạng được kết nối với nhau thành các nhóm chặt chẽ, giữa các nhóm đó có chỉ những kết nối lỏng lẻo hơn. Chúng tôi đề xuất một phương pháp để phát hiện các cộng đồng như vậy, được xây dựng dựa trên ý tưởng sử dụng các chỉ số trung tâm để tìm ranh giới cộng đồng. Chúng tôi thử nghiệm phương pháp của mình trên các đồ thị do máy tính tạo ra và các đồ thị trong thế giới thực, có cấu trúc cộng đồng đã biết và phát hiện rằng phương pháp này phát hiện cấu trúc đã biết này với độ nhạy và độ tin cậy cao. Chúng tôi cũng áp dụng phương pháp này cho hai mạng có cấu trúc cộng đồng chưa được biết rõ—mạng hợp tác và mạng thức ăn—và thấy rằng nó phát hiện các phân chia cộng đồng quan trọng và có thông tin ở cả hai trường hợp.
Dữ liệu thu được từ các nhân viên chính thức của một tổ chức khu vực công tại Ấn Độ đã được sử dụng để kiểm tra một mô hình trao đổi xã hội liên quan đến thái độ và hành vi làm việc của nhân viên. Kết quả từ LISREL tiết lộ rằng trong khi ba khía cạnh của công bằng tổ chức (công bằng phân phối, công bằng quy trình và công bằng tương tác) có liên quan đến sự tin tưởng vào tổ chức, chỉ có công bằng tương tác mới liên quan đến sự tin tưởng vào người quản lý. Kết quả cũng cho thấy rằng so với mô hình trung gian hoàn toàn được giả thuyết, một mô hình trung gian một phần phù hợp hơn với dữ liệu. Sự tin tưởng vào tổ chức đã trung gian một phần mối quan hệ giữa công bằng phân phối và công bằng quy trình với các thái độ làm việc như sự hài lòng với công việc, ý định bỏ việc, và cam kết tổ chức, nhưng đã hoàn toàn trung gian hóa mối quan hệ giữa công bằng tương tác và các thái độ làm việc này. Ngược lại, sự tin tưởng vào người quản lý đã hoàn toàn trung gian hóa mối quan hệ giữa công bằng tương tác và các hành vi làm việc như hiệu suất thực hiện nhiệm vụ và các khía cạnh hành vi công dân định hướng cá nhân và tổ chức.
Có hai hệ thống tín hiệu cảm nhận số lượng acyl-homoserine lactone có mối liên quan trong
Tài liệu về sự hướng dẫn được xem xét ngắn gọn, cho thấy nhiều nghiên cứu đã ghi nhận các chức năng mà người hướng dẫn cung cấp cho người được hướng dẫn, bao gồm hỗ trợ nghề nghiệp và tâm lý xã hội. Nghiên cứu này điều tra mối liên hệ giữa các chức năng này và kết quả di động nghề nghiệp của người được hướng dẫn. Kết quả từ một mẫu ngẫu nhiên gồm 244 nhà quản lý trong ngành sản xuất hỗ trợ các nghiên cứu trước đây về các chiều hướng của sự hướng dẫn. Hơn nữa, hỗ trợ nghề nghiệp (huấn luyện) và tâm lý xã hội (hỗ trợ xã hội) được phát hiện có liên quan đến mức lương và thăng tiến của các nhà quản lý. Các ý nghĩa của những kết quả này đối với các nghiên cứu tương lai về sự hướng dẫn được thảo luận.
Khoa học tâm lý về thai kỳ đang phát triển nhanh chóng. Một trong những trọng tâm chính là các quá trình căng thẳng trong thai kỳ và tác động của chúng đến sinh non và cân nặng thấp khi sinh. Bằng chứng hiện tại chỉ ra rằng lo âu trong thai kỳ là một yếu tố rủi ro chủ chốt trong nguyên nhân gây sinh non, trong khi căng thẳng mãn tính và trầm cảm liên quan đến nguyên nhân gây cân nặng thấp khi sinh. Các quá trình trung gian chính mà những tác động này được quy cho, tức là cơ chế thần kinh nội tiết, viêm nhiễm, và hành vi, sẽ được xem xét một cách ngắn gọn, và nghiên cứu về việc ứng phó với căng thẳng trong thai kỳ cũng sẽ được khám phá. Bằng chứng về sự hỗ trợ xã hội và cân nặng khi sinh cũng sẽ được xem xét với sự chú ý đến những khoảng trống trong nghiên cứu về các cơ chế, mối quan hệ với bạn đời, và ảnh hưởng văn hóa. Các hậu quả phát triển thần kinh của căng thẳng trước sinh được làm nổi bật, và các nguồn lực phục hồi trong số những người phụ nữ mang thai được hình thành. Cuối cùng, một phương pháp lý thuyết đa cấp nhằm nghiên cứu lo âu thai kỳ và sinh non được trình bày để kích thích các nghiên cứu trong tương lai.
Nghiên cứu ARTIST (Điều trị hóa xạ trị bổ trợ trong ung thư dạ dày) là nghiên cứu đầu tiên mà theo chúng tôi biết đến để điều tra vai trò của hóa xạ trị bổ trợ hậu phẫu ở bệnh nhân mắc ung thư dạ dày đã được cắt bỏ hoàn toàn với nạo hạch D2. Nghiên cứu này được thiết kế để so sánh điều trị hậu phẫu bằng capecitabine cộng với cisplatin (XP) với XP cộng với Xạ trị capecitabine (XP/XRT/XP).
Nhánh XP nhận sáu chu kỳ XP (capecitabine 2,000 mg/m2 mỗi ngày từ ngày 1 đến ngày 14 và cisplatin 60 mg/m2 vào ngày đầu tiên, lặp lại mỗi 3 tuần) hóa trị. Nhánh XP/XRT/XP nhận hai chu kỳ XP sau đó là XRT 45-Gy (capecitabine 1,650 mg/m2 mỗi ngày trong 5 tuần) và hai chu kỳ XP.
Trong số 458 bệnh nhân, 228 được phân ngẫu nhiên vào nhánh XP và 230 vào nhánh XP/XRT/XP. Điều trị được hoàn thành như kế hoạch đối với 75,4% bệnh nhân (172 trong số 228) trong nhánh XP và 81,7% (188 trong số 230) trong nhánh XP/XRT/XP. Tổng thể, việc bổ sung XRT vào hóa trị XP không làm kéo dài thời gian sống không bệnh (DFS; P = .0862). Tuy nhiên, trong nhóm bệnh nhân có di căn hạch bạch huyết tại thời điểm phẫu thuật (n = 396), bệnh nhân được phân ngẫu nhiên vào nhánh XP/XRT/XP có thời gian sống không bệnh vượt trội so với những người chỉ nhận XP (P = .0365), và ý nghĩa thống kê vẫn được giữ trong phân tích đa biến (ước tính tỷ lệ nguy cơ, 0.6865; 95% CI, 0.4735 đến 0.9952; P = .0471).
Việc bổ sung XRT vào hóa trị XP không làm giảm đáng kể tỷ lệ tái phát sau phẫu thuật triệt căn và nạo hạch D2 trong ung thư dạ dày. Một thử nghiệm tiếp theo (ARTIST-II) trên bệnh nhân ung thư dạ dày dương tính với hạch bạch huyết đang được lên kế hoạch.
Bài báo này đề xuất rằng những cá nhân báo cáo họ sống trong các khu vực có đặc điểm hỗn loạn - với tội phạm, phá hoại, tranh graffiti, sự nguy hiểm, tiếng ồn, bụi bẩn và ma túy - thì có mức độ nỗi sợ và sự nghi ngờ cao. Nó cũng đề xuất rằng các mối quan hệ và kết nối của cá nhân với hàng xóm có thể làm giảm những tác động tiêu cực của việc sống trong khu vực có đặc điểm hỗn loạn đối với nỗi sợ hãi và sự nghi ngờ. Kết quả từ một mẫu đại diện gồm 2482 cư dân Illinois được thu thập qua điện thoại vào năm 1995 ủng hộ các giả thuyết này. Sống trong một khu vực có nhiều sự hỗn loạn cảm nhận có ảnh hưởng đáng kể đến sự nghi ngờ và nỗi sợ bị nạn, sau khi điều chỉnh các đặc điểm xã hội-dân số. Sự hỗn loạn trong khu vực cảm nhận và các mối quan hệ xã hội tương tác đáng kể: các mối quan hệ xã hội không chính thức với hàng xóm làm giảm các tác động sản sinh nỗi sợ hãi và sự nghi ngờ của sự hỗn loạn. Tuy nhiên, sự tham gia chính thức vào các tổ chức khu phố cho thấy ít tác dụng giảm nhẹ.
Mặc dù nghiên cứu về kinh doanh gia đình đã nổi bật công nhận rằng các công ty gia đình được thúc đẩy bởi các yếu tố phi tài chính, nhưng văn học vẫn còn tương đối im lặng về việc liệu các công ty này có khả năng tích cực hơn các công ty khác trong việc tiếp cận với các bên liên quan, những người thường có yêu cầu phi tiền tệ. Bài báo này lập luận rằng các công ty gia đình có xu hướng áp dụng các hoạt động tham gia với các bên liên quan một cách chủ động (PSE) vì bằng cách làm như vậy, họ duy trì và tăng cường tài sản xã hội cảm xúc (SEW) của mình. Chúng tôi khám phá tác động của các khía cạnh khác nhau của SEW đối với PSE và xác định các logic đặc thù giải thích việc áp dụng các thực tiễn như vậy. Cuối cùng, chúng tôi đưa ra một tập hợp các chủ đề cho các nghiên cứu trong tương lai.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10